Saturday, September 7, 2013

Nice Art














Lịch sử của những bộ râu

Lịch sử của những bộ râu
Râu là dấu hiệu của một người đàn ông trưởng thành là biểu tượng của lòng danh dự cao , những thanh niên trẻ và thái giám thì không có râu, phụ nhữ có râu thì được coi là phù thủy.
Adam, người đàn ông nguyên thủy, và Thượng Đế và các nhà tiên tri thường mang hình ảnh truyền thống với bộ râu, cũng như các vị Vua, nhà quý tộc, và những người có địa vị quyền lực.

Râu Ai Cập

Những người Ai Cập cổ xưa, đặc biệt là những người có địa vị, có râu ở cằm.
Họ làm quân, nhuộm râu ( màu nâu hoặc màu đỏ ) và thích thoảng trang trí râu bằng cách kết đan xen những sợi râu với những sợi chỉ Vàng.
Phong tục này xuất hiện vào khoảng năm 3000 đến 1580 trước Công Nguyên.


Râu của nền văn minh Lưỡng Hà



Những nền văn minh Lưỡng Hà ( Chaldean, Babylonian, Assyrian, Median, Aramean, và Ba Tư Cổ Đại ) chăm sóc bộ râu kỹ lưỡng với tinh dầu, trang trí râu với những chiếc vòng kim loại tạo ra hiều tầng của râu.

Người Assyrians nhuộm râu , tóc, lông mày màu đen. Người Ba Tư sử dụng cây henna ( cây móng tay ) để nhuộm râu mà cam - đỏ, phong tục này xuất hiện vào khoảng năm 1900 trước công nguyên.


Cổ đại Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ, râu là biểu tượng của nhân phẩm và trí tuệ. 
Còn những người Nô lệ thì cạo râu, gương mặt " mày râu nhẵn nhụi " là dấu hiệu cho thân phận nô lệ.


Râu Hy Lạp

Người Hy Lạp đa số để râu , nhưng đến năm 323 trước công nguyên , Alexander Đại Đế ra lệnh cho quân đội cạo râu, vì để râu dễ bị kẻ thù nắm râu và giết. 
Râu Hy Lạp thường uốn quăn và chia ra nhiều lọn nhỏ.


Râu La Mã

Người La Mã cho rằng Râu uốn quăn của Người Hy Lạp là quá nữ tính, nhu nhược, yếu đuối. 
Người La Mã để râu cắt tỉa gọn gàng.

Sử dụng dao cạo râu được khuyến khích ở La Mã bởi vua Lucius Tarquinius Priscus ( 616-578 trước công nguyên ) cho việc cải cách vệ sinh.
Người Hy Lạp và La Mã đa số cạo râu, và danh từ "  barbarous " có nghĩa là mọi rợ , man di , những người chưa được khai hóa , dùng để chỉ những người để râu sống ngoài xu hướng chung của xã hội thời đó.
Các nhà Triết Học vẫn tiếp tục để râu.

Nhà triết học Socrates

Nhà triết học Plato và Aristotle

Quá trình chuyển đổi của Châu Âu

Tất cả người Anglo-Saxon để râu, cho đến khi sự ra đời của Kitô giáo vào thế kỷ thứ 7,  các thành viên trong hàng giáo sĩ bắt buộc phải cạo râu theo pháp luật .
Các Hoàng tử Anh để ria cho đến khi vua William I ra pháp luật (1066-1087) buộc họ phải cắt bớt ria cho phù hợp với thời trang Norman.
Thập tự chinh cho sự trở lại của râu, và trong hơn bốn thế kỷ : râu, ria mép, và cạo râu cùng tồn tại.
Thời trang Phục hưng ở châu Âu bao gồm cả hai loại " mày râu nhẵn nhụi " và râu khác nhau về hình dạng, độ dài.
Ở Anh, Vua Henry VIII (1509-1547) đã mang xu hướng để râu trở lại vào năm 1535, sau đó râu các hình dạng và độ dài được cho phép để.

Vua Henry VIII

Râu Hồi Giáo

Người Hồi Giáo thường để râu dài , cạo ria mép hoặc cắt tỉa ria mép ngắn.





Râu Tích Khắc

Người Tích Khắc thường để râu dài tự nhiên , hoặc cắt ngắn.






Râu Do Thái

Tương tự như người Tích Khắc, người Do Thái để râu dài tự nhiên ,  cắt ngắn , hoặc để tóc mai.